Trong khi phát triển quan điểm triết học này, điểm tựa của Marx là những nhà tư tưởng vĩ đại đi trước ông nhưng ông chẳng những đã vượt xa họ trong việc phát triển thêm những ý tưởng đó mà còn cung cấp thêm những hiểu biết mới. Ông đã phát triển phép biện chứng của mình từ Hegel, nhà triết học vĩ đại người Đức. Trong bài viết này Ann Robertson ở Hoa Kỳ cung cấp một khảo sát thú vị về sự phát triển của phép biện chứng từ Hegel tới Marx.
Phần I: Phép biện chứng của Hegel
A. Dẫn nhập
Bất cứ ai nghiên cứu một cách nghiêm túc về cách mạng xã hội cuối cùng đều phải đi tới một sự xem xét kỹ lưỡng về triết học của Marx, người mà có lẽ đã có ảnh hưởng tới những biến đổi xã hội nhiều hơn bất kỳ nhà lý luận nào khác từng có. Nỗ lực này tới lượt nó lại dẫn đến một sự xem xét về bản chất của phép biện chứng, một “phương pháp” bao trùm không chỉ tất cả các tác phẩm của Marx mà còn tất cả các tác phẩm của những người tuân thủ truyền thống Marxist. Nó được coi là công cụ không thể thiếu, mà không có nó bạn chỉ đơn giản là lang thang trong bóng tối và sau đó vấp phải một quan niệm sai lầm nào đó.
Nhưng một sự hiểu biết đúng đắn về phép biện chứng chính nó đặt ra một thách thức ghê gớm. Ý kiến giải thích của Marx là ngắn gọn và phân tán. Mặc dù ông có dự định cung cấp một giải thích ngắn về phép biện chứng, ông đã mất trước khi hoàn thành nhiệm vụ. Sự làm sáng tỏ của Engels, trong khi hữu ích, thường khởi đầu cho việc giải thích sai. Do đó, người nghiên cứu kiên trì bị ném trở lại vào các tác phẩm của Hegel, người mà hơn bất kỳ triết gia nào khác, đã đặt phép biện chứng vào trung tâm triết học của mình và người mà Marx luôn tin là đã làm sáng tỏ các hình thức căn bản của phép biện chứng, mặc dù trong khuôn khổ thiếu sót. Tới đây thì nhiều nhà nghiên cứu chỉ đơn giản cảm thấy choáng ngợp, không chỉ vì chiều kích phi thường của các tác phẩm của Hegel mà còn vì sự khó hiểu và sự dày đặc của những ý tưởng trong đó.
Tuy nhiên, việc xem xét cách nghiên cứu của Hegel đối với phép biện chứng có lợi cho, như chúng ta sẽ thấy, những khía cạnh nhất định mà sự cắt nghĩa của ông đã được chứng minh là sự hiểu biết đúng đắn về phép biện chứng, tuy nhiên hoàn toàn bị bỏ qua hoặc bị che khuất trong những giải thích của người đi sau. Bài tiểu luận này nhằm góp phần cho cuộc thảo luận liên quan tới bản chất của phép biện chứng.
Ngoài ra cần lưu ý trước một điều là thứ tự trong triết học của Hegel. Một nhà toán học có thể xây dựng một lý thuyết bắt đầu bằng các đơn vị độc lập, hoàn toàn có thể hiểu được theo cách riêng của chúng, tương đối cố định và không thay đổi. Mỗi bước mới sau đó được thêm vào theo một cách máy móc hoàn toàn. Triết học của Hegel thể hiện một cấu trúc hoàn toàn khác: đó là một hệ thống hữu cơ, trong đó ý nghĩa của từng bộ phận chỉ có thể được xác lập đúng đắn trong mối tương quan với toàn bộ hệ thống; nó sẽ mất hết ý nghĩa hoặc được gán cho một ý nghĩa không chính xác khi được xem xét trong sự cô lập. Hegel đưa ra sự tương tự sau đây để minh họa điểm này:
Xét tới cùng, Hegel đã mô tả một hiện thực hữu cơ đang trải qua sự phát triển, và do đó hệ thống của ông phản ánh những mối quan hệ hữu cơ tương tự. Theo đó, hệ thống của ông phải được đọc đi đọc lại: Cái khi bắt đầu sẽ trải qua một sự thay đổi về ý nghĩa khi được xem xét trong mối tương quan với toàn bộ hệ thống như thể đối lập hẳn với khi nó ở lần tiếp xúc đầu tiên, lúc mà người đọc thiếu một viễn cảnh toàn diện. Nói cách khác, với Hegel, người ta không thể bắt đầu sai bước. Vì lý do này, ông luôn khẳng định rằng sự thật không thể được thể hiện đầy đủ bằng một lời tuyên bố - nó chỉ có thể được nắm bắt bởi một hệ thống: “Khoa học của Ý tưởng này phải tạo thành một hệ thống. Bởi sự thật là thực chất....” ( LOGIC CỦA HEGEL, Wallace, Tr.24)
Ngoài trở ngại về cấu trúc này, những nỗ lực tìm hiểu Hegel cũng bị trật bánh bởi những lý do bên ngoài. Hầu hết các sinh viên nhanh chóng tìm kiếm sự giúp đỡ từ các nhà phê bình, thường mang lại lợi ích rất lớn, nhưng có những lúc các nguồn thứ cấp lại gây hiểu lầm, ngay cả trường hợp tốt nhất. Chẳng hạn, đã có một khuynh hướng áp đảo, đặc biệt là trong truyền thống Stalinist, cho rằng phép biện chứng áp dụng cả vào tự nhiên và thực tế xã hội theo cùng một cách. Thông thường, người bình luận sẽ bắt đầu bằng cách rút ra các ví dụ về phép biện chứng từ tự nhiên và sau đó chuyển đổi liền mạch sang xã hội, làm như thể ngụ ý rằng chẳng có hố sâu nào chắn ngang trên đường đi. Đúng là Hegel đã khẳng định rằng phép biện chứng thấm vào mọi thứ, ví dụ: “Mọi thứ xung quanh chúng ta đều có thể được xem như một ví dụ của Phép biện chứng.” ( LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.150) Tuy nhiên, như sẽ được giải thích dưới đây, ông cũng nhấn mạnh rằng phép biện chứng thể hiện những hình thức khác nhau cả về tính chất và ý nghĩa, tùy thuộc vào vấn đề.
Hơn nữa, các nhà phê bình thường không đưa ra được sự tham chiếu đến ba phạm trù cơ bản xác định phép biện chứng (phổ biến, đặc thù và cá nhân) trong đó đối với Hegel, phổ biến là bước đầu tiên trừu tượng, đặc thù là sự phủ định và cá nhân là sự phủ định của phủ định. Thay vào đó, họ thường hài lòng với sự nhắc lại ba quy luật của Engels: “Quy luật chuyển hóa từ lượng thành chất và ngược lại; quy luật về sự thâm nhập của các mặt đối lập; quy luật phủ định của phủ định”, mà tuân theo chúng là một loạt các ví dụ. Cách tiếp cận này sau đây sẽ được chứng tỏ rằng về căn bản là không đầy đủ và tham chiếu đến phổ biến, đặc thù và cá nhân là không thể thiếu.
Trong việc làm sáng tỏ phép biện chứng của Hegel, dĩ nhiên, người ta có thể bắt đầu bằng một định nghĩa, thứ mà Hegel trên thực tế đã đưa ra một quan điểm: “Nhưng theo Phép biện chứng có nghĩa là khuynh hướng ở trong hướng ra ngoài với sự phiến diện và hạn chế của các thuộc tính của hiểu biết được nhìn thấy trong ánh sáng thực sự của nó, và được thể hiện là sự phủ định của chúng.” ( LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.147) Tuy nhiên, trong khi các định nghĩa có thể đưa ra một số dấu hiệu mơ hồ về hướng chung cần theo đuổi, chúng vẫn mang tính trừu tượng, cung cấp ít ý nghĩa về cách chính xác chúng được áp dụng, hoặc không được áp dụng, và do đó cần được chiếu sáng nhiều hơn dự định của chính chúng.
B. Cấu trúc bộ ba của phép biện chứng.
Với tất cả sự rào trước đón sau trong tâm trí, chúng ta không có cách nào khác ngoài việc theo dõi sự miêu tả của Hegel và quan sát sự mở ra của phép biện chứng khi nó biến hóa thành các hình thức ngày càng cụ thể. Và ở đây, những nỗ lực ban đầu của chúng ta được dễ dàng hơn rất nhiều khi đi kèm với ít nhất là một ý tưởng chung về phạm vi mà chúng ta đang bắt đầu. Theo logic của Hegel, sự khởi đầu này diễn ra trong phạm vi của nhận thức hoặc tư duy, không phải với cảm giác hay trực giác hoặc tri giác:
Vì vậy, chúng ta bắt đầu trong phạm vi của tư duy, và, như chúng ta sẽ sớm khám phá ra, ư“Tư duy trong chính bản chất của nó là biện chứng.” ( LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.18)
Điểm khởi đầu của chúng ta không chỉ là tư duy, điều quan trọng là phải hiểu rằng kiểu tư duy được thể hiện ngay từ đầu bởi hệ thống của Hegel là một kiểu suy tưởng thấp hơn, biểu thị những gì mà Hegel, cùng với Kant, gọi là khả năng Hiểu biết, một lối suy nghĩ mà sẽ tương phản với khả năng Lý trí cao hơn. Sự Hiểu biết, vì nó buộc chính nó phải phân tích và mổ xẻ cũng như luôn nhìn thế giới như thể những bức ảnh chụp tĩnh, không có khả năng làm sáng tỏ được mặt tích cực của phép biện chứng và phải rút lui khi Lý trí xuất hiện. Với khả năng Hiểu biết và các sản phẩm tư tưởng của chính nó là điểm xuất phát của chúng ta, chúng ta sẽ theo dõi sự miêu tả của Hegel và xem tại sao lối suy nghĩ này nhất thiết phải phát triển thành hình thức cao hơn của Lý trí. Cho tới cùng, Hegel lập luận rằng hai khả năng này không hoàn toàn khác biệt, như Kant giả định, khi Lý trí là sự Hiểu biết, được đưa lên một cấp độ cao hơn.
Làm thế nào mà sau đó, tư duy, trong phương thức của sự Hiểu biết, tạo ra một cách sáng tạo khách thể của chính nó? Chính xác thì bước đầu tiên của nó “trong quá trình nhận thức” là gì? Theo Hegel, sự Hiểu biết nhất thiết phải bắt đầu với phổ biến hoàn toàn đơn giản, trừu tượng:
“Sự khởi đầu, nguyên tắc, hay Tuyệt đối, như lần đầu mới được nêu ra, chỉ là phổ biến. Giống như khi tôi nói ‘tất cả các loài động vật’, cách diễn đạt này không thể xem như là khoa học về động vật, nó cũng đơn giản không kém gì các từ ‘Thần thánh’, '’Tuyệt đối’, ‘Vĩnh cửu’, v.v... không thể hiện những gì có trong chúng, và thực sự chỉ có những từ như vậy mới thể hiện được trực giác như một thứ gì đó ngay lập tức.” ( Hiện tượng học tinh thần, Hegel, Miller dịch, Tr.11)
Khi chúng ta bước vào suy tư, chúng ta bắt đầu với một phổ biến trừu tượng đơn giản bởi vì đây là yếu tố dễ tiếp cận nhất với tư duy. Ví dụ, nếu chúng ta chỉ lên trời và hỏi: “Cái gì vậy?” sau đó câu trả lời có thể là một cái gì đó theo trật tự, “Đó là một ngôi sao.” Nhưng thuật ngữ “ngôi sao” hoàn toàn trừu tượng, không có bất kỳ quy ước cụ thể nào liên quan tới bản chất của chính nó. Phổ biến trừu tượng này xuất hiện trở lại ở nhiều mức độ tinh vi khác nhau trong hệ thống của Hegel, nhưng khi chúng ta vận dụng với sự Hiểu biết, nó giả định những đặc điểm nhất định. Để bắt đầu, như một phổ biến trừu tượng, nó đã bị xé toạc ra khỏi bối cảnh xung quanh và do đó đứng một mình, bị cô lập và ngắt kết nối:
Nói cách khác, một sự phỏng đoán rằng với thuật ngữ “ngôi sao” chúng ta đang thực sự đối phó với một thứ gì đó về chất, nằm ngoài bất kỳ thuộc tính cụ thể nào mà nó có thể sở hữu:
Ở giai đoạn này, Sự hiểu biết chỉ đơn giản tạo ra phổ biến như một loại “viết tắt” của “vô số những thứ cụ thể hiện diện một cách mơ hồ với trực giác và tư duy trực quan” (KHOA HỌC CỦA LOGIC, Hegel, Miller dịch, Tr.39) hoặc đại diện cho những gì “chung cho tất cả chúng”, và được coi như một thứ gì đó cố định và vĩnh viễn. (LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.42) Mặc dù tạo ra những phạm trù hoàn toàn tĩnh tại nhưng sự Hiểu biết đóng một vai trò không thể thiếu trong quá trình đạt tới chân lý cuối cùng: “Dù vậy, phải nói thêm rằng công lao và sự đúng đắn của Hiểu biết đơn thuần nên được thừa nhận một cách không đắn đo. Và công lao đó nằm ở thực tế rằng ‘ngoài Hiểu biết ra thì chẳng có gì cố định hay chính xác trong địa phận của lý thuyết cũng như thực tiễn.” ( LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.144)
Khi tạo ra những phổ biến này, sự Hiểu biết bị dày vò dưới giả định rằng nó, với tư cách là chủ thể biết, đối lập với một thế giới bên ngoài như thể các công trình của nó chỉ là những sáng tạo tinh thần, thiếu thực tế khách quan:
“Nó [tầm nhìn của sự Hiểu biết] tin rằng tư duy là một hành động chủ quan và hình thức, và thực tế khách quan, thứ đối diện với tư duy, là một bản thể riêng biệt và trường tồn.” ( LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.328)
“Trong đặc tính này của sự phổ biến, chúng ta vừa vặn nhận ra được sự đối nghịch của nó với cái thứ khác. Cái thứ khác này là trực tiếp đơn thuần, hướng ngoại và cá nhân, trái ngược với gián tiếp, hướng nội và phổ biến. Phổ biến không tồn tại bên ngoài đôi mắt thiển cận như một phổ biến... quy luật vận động của các thiên thể không được viết trên bầu trời. Phổ biến không được nhìn thấy hay nghe thấy, sự tồn tại của nó chỉ ở nơi tâm trí.” ( LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.42-3)
Nói cách khác, sự Hiểu biết coi những phổ biến trừu tượng này như những sáng tạo hoàn toàn về mặt tinh thần, như, chẳng hạn, khi chúng ta xem xét một số đối tượng màu đỏ khác nhau và sự trừu tượng từ chúng là khái niệm màu đỏ. Sự Hiểu biết giả định một hố sâu căn bản phân chia thế giới của tâm trí và tất cả những sáng tạo tinh thần của nó từ thế giới vật chất bên ngoài.
Tóm lại: Sự Hiểu biết bắt đầu suy nghĩ về thế giới bằng cách cô lập, thông qua một quá trình trừu tượng hóa, một khái niệm phổ biến đơn giản, từ đó cắt đứt nó khỏi bất kỳ mối quan hệ nào với bối cảnh xung quanh, và tiến hành coi nó như một sáng tạo tinh thần vĩnh viễn bất động, thuần khiết. Khi phép biện chứng mở ra trước mắt, chúng ta sẽ khám phá ra rằng đối với Hegel, để đạt được chân lý thực sự, tất cả các đặc điểm này phải bị phủ định vì ông tin rằng để biết bất cứ điều gì, nó phải được đặt trong một bối cảnh hữu cơ nơi mà mối quan hệ của nó với mọi thứ khác trở nên rõ ràng.
Trong mọi trường hợp, bước thứ hai trong quá trình nhận thức (một khi sự Hiểu biết đã tạo ra một phổ biến) là gán các vị từ cho nó bởi vì phổ biến trừu tượng, trong và ở chính nó, thiếu nội dung và do đó thiếu sự thực chất. Vì vậy, ví dụ, nếu người ta biết rằng một vật thể trên bầu trời là một ngôi sao nhưng không có bất kỳ kiến thức nào về những ngôi sao, thì người ta vẫn chẳng có mối liên hệ nào với kiến thức cả.
“...Chủ thể cũng như vậy, trong thí dụ đầu, chỉ là một cái tên ... Trong câu hỏi: đây là cái gì? Hoặc: đây là loại cây gì? Những gì thường được hiểu sau khi hỏi, chỉ đơn thuần là cái tên và khi đó điều này thỏa mãn người học, để biết giờ đây nó là cái gì ... Nhưng Khái niệm, hay ít nhất là bản chất và phổ biến nói chung, được đưa ra trước hết bởi vị từ ... Do đó, Thiên Chúa, tinh thần, thiên nhiên, hoặc bất cứ điều gì có thể, là chủ thể của một phán xét lúc đầu chỉ là cái tên, quan hệ của một chủ thể như vậy với Khái niệm của chính nó trước tiên được sáng tỏ trong sự vị từ hóa ( sự xác định).” (KHOA HỌC CỦA LOGIC, Hegel, Miller dịch, Tr.624)
Nói cách khác, phổ biến trừu tượng, mặc dù là điểm khởi đầu không thể thiếu, không giúp chúng ta tiến xa. Chúng ta phải bắt đầu đính kèm các vị từ hoặc thuộc tính vào nó để có thể nói cụ thể hơn nó là gì. Ở đây, sự Hiểu biết kể từ đây về cơ bản tham gia vào một kiểu phân tích: “Nhận thức ... không bao giờ có thể làm gì hơn là tách các đối tượng cụ thể đã cho thành các yếu tố trừu tượng của chúng và sau đó xem xét các yếu tố này trong sự cô lập của chúng .... ( LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.365)
Với ý định gán mọi thứ với một phạm trù riêng biệt, sự Hiểu biết quan niệm rằng các thuộc tính đặc thù này tách biệt hoàn toàn với phổ biến trừu tượng ban đầu cũng như tách biệt giữa chúng với nhau. Một cái bảng, ví dụ vậy, như một khái niệm phổ biến, nó có thể là hình vuông hoặc cũng có thể là hình chữ nhật, nhưng nó vẫn là một cái bảng bất kể hình dạng cụ thể thế nào. Về mặt này, các đặc tính phổ biến và đặc thù dường như đứng trong mối quan hệ hoàn toàn tình cờ với nhau. Và hình dạng của nó được xem như là hoàn toàn tách biệt với màu sắc của nó.
Đối với Hegel, lối nghĩ này, hoàn toàn tiêu biểu cho sự Hiểu biết, đặc trưng với cả tri giác thông thường và kiểu tư duy được sử dụng trong khoa học tự nhiên cũng như siêu hình và trường phái triết học kinh nghiệm chủ nghĩa. Newton chẳng hạn, đã quan sát một loạt các ví dụ cụ thể về các vật thể tự nhiên trong chuyển động và, thông qua một quá trình của sự suy ngẫm, đã có thể xác định một định luật duy nhất, định luật vạn vật hấp dẫn, thứ nắm bắt được đặc điểm chung trong sự đa dạng này. Ở đây định luật này đứng đối lập và tách biệt với các trường hợp của chính nó trong thế giới tự nhiên. Là một sáng tạo tinh thần, nó không chứa mối liên hệ cần thiết giữa bản thân và chuyển động của các đối tượng mà nó mô tả qua tri giác; những vật thể đó đã rơi xuống đất từ lâu trước khi Newton đưa ra định luật và định luật vẫn tồn tại mặc cho cuốn sách đặc biệt này có rơi xuống đất hay không.
“Lẽ thường (ý thức chung), sự pha trộn giữa ý thức và sự hiểu biết, tin rằng các đối tượng mà nó có kiến thức là độc lập một cách riêng rẽ và tự túc, và khi nó trở nên rõ ràng rằng chúng hướng về nhau và quy định lẫn nhau, sự độc lập của cái này với cái khác được xem như một cái gì đó xa lạ với chúng và bản chất thực sự của chúng.” ( LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.93)
Nói cách khác, thế giới của lẽ thường được tạo ra bởi những thực thể tĩnh, bị ngắt kết nối. Trẻ em, chẳng hạn, cho rằng ông bà của chúng luôn già đi và sự tồn tại của chúng hoàn toàn độc lập với họ. Những người trẻ tuổi hiểu một cách trừu tượng rằng mọi người già đi, nhưng không kết nối được sự thật này với chính họ, và họ thậm chí còn chậm hơn để nhận ra rằng chính họ là sản phẩm của thế giới xung quanh họ với văn hóa đặc thù của nó.
Bởi vì các hoạt động của Sự hiểu biết trùng khớp với lẽ thường và mâu thuẫn với phép biện chứng, bước tiếp theo của Hegel rất khó để nuốt trôi và thường gặp phải sự thù địch. Nhưng nếu lập luận của ông được xem xét kỹ càng thì chúng ta sẽ khám phá ra rằng nó thực sự dựa trên cơ sở hợp lý.
Phép biện chứng có dạng này: Hegel lập luận rằng các đặc điểm khác nhau được tách ra thành các thuộc tính cụ thể không chỉ đứng trong sự mâu thuẫn với nhau mà còn đối với phổ biến trừu tượng ban đầu. Việc giải quyết mâu thuẫn này sau đó nhất thiết phải dẫn đến một quan niệm cao hơn, tinh vi hơn, kết hợp các yếu tố mâu thuẫn ở cấp độ thấp hơn này thành một thể thống nhất phức tạp hơn.
Tuy nhiên, trước khi chúng ta có thể kinh ngạc trước sự giải quyết này, chúng ta cần hiểu chính xác theo nghĩa nào mà sự Hiểu biết tự mình vướng vào những mâu thuẫn. Hơn nữa trước khi câu hỏi này có thể được giải quyết, chúng ta phải nói một vài điều về Lý trí, vì nó cung cấp nhiên liệu đốt cháy cho quá trình.
Hegel khẳng định rằng khả năng Lý trí không ngừng nỗ lực hướng tới sự hiểu biết tuyệt đối: “Nhưng với sự tăng lên của sự chăm chú suy tưởng về mọi thứ, điều sẽ sớm trở nên rõ ràng rằng sự suy tư sẽ được thỏa mãn với không gì ngoài nhu cầu của sự thật.” ( LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.3-4) Nếu có điều gì đó xảy ra, chúng ta muốn biết tại sao. Lý trí luôn đẩy các giới hạn của sự nắm bắt khoa học của chúng ta về thế giới tiến xa hơn, tìm kiếm một câu trả lời cho tất cả các câu hỏi và hài lòng với không gì ngoài sự đích xác tuyệt đối. Nó kiếm tìm những kết nối ẩn bên dưới các hiện tượng đa dạng để xét tới cùng mọi yếu tố đều được kết nối hợp lý với những cái khác. Sự khăng khăng của Lý trí đóng vai trò cần thiết như là động lực cho phép biện chứng của Hegel, một lực lượng cuối cùng chỉ được thỏa mãn với sự phát triển toàn diện của chính Tâm trí. Trong khi Kant lý lẽ rằng Lý trí đã cam chịu thất bại trong nỗ lực này thì Hegel ngược lại không ngừng khẳng định rằng thành công là định mệnh của nó.
Sự mâu thuẫn mà sự Hiểu biết phải đối mặt, sau đó, về cơ bản là thế này: Mặc dù phổ biến trừu tượng ban đầu xuất hiện như một sự nắm bắt chắc chắn nội dung của kiến thức, nhưng đó là một chiến thắng trống rỗng, “Ở nơi đâu mà đặc tính không được xác định, kiến thức là không thể.” ( LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.74) Chúng ta buộc phải gắn các thuộc tính vào nó để cung cấp cho nó nội dung. Nhưng ở đây có vấn đề xuất hiện. Đầu tiên, sự Hiểu biết, vì thiên hướng liên quan đến mọi thứ một cách cô lập, không có khả năng cung cấp cho chúng ta bất kỳ cách thức hợp lý nào để hình dung mối quan hệ giữa phổ biến và đặc thù. Ví dụ, tuyên bố rằng các thuộc tính là “sẵn có” trong vật chất, thực sự không tiết lộ cho chúng ta điều gì. Hình thức cao nhất của sự cần thiết Hiểu biết có khả năng cung cấp là trong những quan hệ nhân quả, nhưng mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả vẫn là tình cờ. Sức nóng của mặt trời làm tan băng, nhưng vũ trụ có thể đã được xây dựng theo một cách mà quy luật này không trụ vững được. Thứ hai, các thuộc tính đặc thù nhằm xác định phổ biến thiếu bất kỳ loại kết nối tuyệt đối cần thiết nào trong mối quan hệ với nhau. Ví dụ, màu sắc độc lập với hình dạng, và cả hai đều khác với kết cấu. Tuy nhiên, “Tất cả sự đa dạng này một lần nữa kích thích một khao khát muốn biết các lực lượng khác nhau này như một toàn thể…” ( LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.249) Thứ ba, cho tới khi các thuộc tính đặc thù được gán cho phổ biến, thì sự Hiểu biết nhất thiết phải đưa ra tham chiếu đến những gì không phải là nó: “Sự phê phán trước đây [thuộc về sự phổ biến] liên quan tới sự khác biệt giữa nhau, từ quan điểm này, phổ biến sở hữu một tính đặc thù....” (KHOA HỌC CỦA LOGIC, Hegel, Miller dịch, Tr.604) Ví dụ, chúng ta hiểu sàn nhà là gì bằng cách hiểu nó khác với tường, mái nhà, v.v.
Hegel là người đầu tiên thừa nhận rằng thông thường chúng ta từ chối thừa nhận rằng bất kỳ vấn đề nào ở trên đều dẫn đến mâu thuẫn. Ngoài ra ông còn đưa ra một lời giải thích cho sự từ chối của chúng ta:
Nói cách khác, Sự Hiểu biết đã quen với việc suy nghĩ bằng hình ảnh, nơi mọi thứ có thể được phân tách gọn gàng thành nhiều khe không gian và thời gian khác nhau và không quan tâm đến việc mọi thứ liên quan tới nhau như thế nào, nhưng lý trí là nhằm thiết lập mối quan hệ logic giữa tất cả các yếu tố và tiến lên phía trước.
Về cơ bản, ý tưởng đằng sau lý luận của Hegel là thế này: Giả sử người ta muốn hiểu chế độ phong kiến là gì. Việc chỉ đơn thuần trỏ vào một xã hội phong kiến và nói “chế độ phong kiến” không đưa chúng ta đi quá xa. Chúng ta cần biết đặc điểm xác định của nó. Và những phẩm chất hoặc thuộc tính này có thể bao gồm sự liên quan tới nông nô, tới một tầng lớp địa chủ và quý tộc v.v… Nhưng để hiểu được thế nào là nông nô, người ta phải hiểu sự khác biệt giữa một nông nô và, ví dụ như, một nô lệ: nô lệ có thể bị bán nhưng nông nô thì không thể. Đây là những gì Hegel muốn nói khi ông lập luận rằng để thực sự hiểu điều gì đó, nó không thể được hiểu một cách cô lập; người ta cũng phải nắm bắt được những gì không phải là nó, và do đó ông đã mô tả bước này của đặc thù hóa và hạn chế hóa như là phủ định đầu tiên: “Như phủ định nói chung hoặc để phù hợp với cái đầu tiên, là sự phủ định trực tiếp, sự phổ biến chứa đựng sự xác định nói chung như nét đặc thù” (KHOA HỌC CỦA LOGIC, Hegel, Miller dịch, Tr.603) Vì vậy, chế độ phong kiến, để được hiểu, phải được hiểu trong mối quan hệ với hệ thống kinh tế tương phản với nó.
Tại thời điểm này Lý trí bước vào và đặt ra câu hỏi về mối quan hệ của các xã hội phong kiến với các xã hội nô lệ, v.v. Người ta có thể nghĩ, ví dụ, rằng tất cả chúng không thể đều là hệ thống xã hội có giá trị. Nhưng thay vì ép chúng chống lại nhau, Lý trí nắm bắt những gì được xem như là đối tượng tồn tại độc lập, phủ nhận sự độc lập của chúng và đặt chúng vào như là một phần của một tổng thể cao hơn. Vì vậy, chẳng hạn, người ta có thể thống nhất quan niệm về xã hội phong kiến với quan niệm về xã hội nô lệ và kết thúc với quan niệm về sự phát triển của lịch sử nơi mỗi xã hội này bị loại bỏ trở thành một bước phát triển của loài người, trong đó các thành viên của xã hội ngày càng trở nên tự do hơn. Trong trường hợp này, khái niệm về lịch sử đại diện cho một quan niệm giàu chất lượng hơn so với quan niệm xã hội đặc thù. Ở đây, sự Hiểu biết đã nâng lên tới mức Lý trí:
Mỗi giai đoạn mới trong khung nhận thức của Hegel đạt được bằng cách thống nhất các yếu tố mâu thuẫn có trong giai đoạn trước. Ví dụ, quan niệm thích hợp để bao quát cả hai quan niệm trước đó dường như đứng trước sự mâu thuẫn hoàn toàn - tồn tại và không là gì - kể từ khi sự thích hợp có hàm ý rằng một cái gì đó đang xuất hiện trong khi một thứ khác đang lùi vào hư vô. Khi các giai đoạn ngày càng cao hơn mở ra, chúng ta chứng kiến sự xuất hiện của các quan niệm tinh vi hoặc phức tạp hơn vì chúng thể hiện một “mức độ phân tích trong phổ biến cao hơn” (KHOA HỌC CỦA LOGIC, Hegel, Miller dịch, Tr.604) của những gì xuất hiện ở bước trước. Chẳng hạn, trong phạm vi của Tồn tại, quan niệm của sự trở thành bao hàm một sự trở thành một thứ gì đó khác biệt hoàn toàn sao cho mối quan hệ của mỗi cái là “hướng tới một cái khác”. Nhưng trong phạm vi của Bản chất, bao gồm phạm vi tiếp nối sự Tồn tại, bản chất chứa đựng mối quan hệ của thứ gì đó ở bên trong chính nó. Đó là, bản chất, bởi đặc tính thực sự của nó ẩn chứa một mối quan hệ không thực chất hoặc chỉ đơn thuần là: “Do đó, cái phản chiếu trước mắt và những sự xác định phát sinh từ sự phản chiếu, không phải là bất cứ điều gì bên ngoài sự phản chiếu mà là sự tồn tại đích thực của chính nó.” (KHOA HỌC CỦA LOGIC, Hegel, Miller dịch, Tr.405) Và khi chúng ta tiến lên phạm vi cao hơn tiếp theo của Khái niệm, các yếu tố được gói gọn trong một cấu trúc hợp lý triệt để vì Khái niệm được cấu trúc như một tổng thể hữu cơ nơi mỗi thành phần có mối tương quan logic với nhau: “Trên phương diện bề ngoài của nó thì hệ thống là một sự đa dạng, không phải của các bộ phận mà là của các thành phần.” (KHOA HỌC CỦA LOGIC, Hegel, Miller dịch, Tr.766) Ví dụ, Khái niệm bao hàm phạm trù sự sống tiêu biểu cho một sinh vật và trong phân tích cuối cùng, Khái niệm, “khi nó đã phát triển trong một sự tồn tại cụ thể thì chính nó được giải phóng, không ai khác ngoài ‘tôi’ , hoặc tự ý thức thuần túy.” (KHOA HỌC CỦA LOGIC, Hegel, Miller dịch, Tr.583)
Sự thống nhất các thuật ngữ này trong một phổ biến cao hơn, được Hegel gọi là cá nhân, là bước thứ ba trong bộ ba biện chứng. Ở đây, thay vì những thứ đứng trong mối quan hệ bề ngoài độc lập với nhau, chúng được hợp nhất trong một tổng thể phong phú, hữu cơ, có cấu trúc nội hàm. Do đó, khi Hegel lập luận rằng mỗi giai đoạn mới đại diện cho một sự phổ biến cao hơn, thì điều này không thể được diễn giải như là sự cao hơn trong phương thức định lượng đơn thuần, ví dụ, phạm trù của động vật có vú bao hàm nhiều loài hơn phạm trù loài chó. Thay vào đó, Hegel đã tranh luận trong giới hạn của một sự phổ biến cao hơn về chất, nơi các thành viên có liên quan trong một đội hình tinh vi hơn, ví dụ, khi chúng ta di chuyển từ phạm trù cuộc sống sang phạm trù của tâm trí.
Tính cá nhân do đó là kết quả của sự phủ định của phủ định trong đó lực lượng phủ định của bước thứ hai tới lượt lại bị phủ định để sự thống nhất được khôi phục. Nó rốt cuộc là “sự phủ định của sự khác biệt này.” (KHOA HỌC CỦA LOGIC, Hegel, Miller dịch, Tr.822) Các yếu tố của bước trước đã được bảo tồn và duy trì, nhưng giờ đây có vẻ một ý nghĩa khác trong ánh sáng của sự phổ biến hoặc toàn thể mới đã được gắn vào chúng. Cụ thể hơn, các yếu tố bên trong đứng trong mối quan hệ thiết yếu cao hơn với nhau.
Trong khi sự Hiểu biết tạo ra những phổ biến trừu tượng và sau đó tiếp tục cung cấp cho chúng nội dung bằng cách kết nối bên ngoài chúng với những đặc tính đặc thù, Lý trí, khi được phát triển đầy đủ, sẽ vươn tới giai đoạn cao nhất của ý thức con người nơi chứa đựng sự tổng hòa của phổ biến và đặc thù. Đó là “sự phổ biến đặc thù cho chính nó” (KHOA HỌC CỦA LOGIC, Hegel, Miller dịch, Tr.819), có nghĩa là một chủ thể tự do tiến hành quyền tự quyết thứ tới lượt lại đòi hỏi phải cụ thể hóa. Ví dụ, ý thức giữ trong tâm trí một mục tiêu trừu tượng, phổ biến rồi tiếp đến bổ sung cho mục tiêu đó trong thực tế. Nó đặt ra một kết thúc cho chính nó, tập hợp các phương tiện đặc thù để đạt tới kết thúc này và sau đó tổ chức lại thực tế cho phù hợp với mục tiêu đó sao cho tất cả các yếu tố này được kết hợp lại với nhau để thành một tổng thể mới. Trong tay của Lý trí, phổ biến không còn là thứ chung chung vô hồn của Hiểu biết mà là “... phổ biến, để thực sự nắm bắt được, phải được nắm bắt một cách chủ quan, như một khái niệm tự vận động, chủ động và hình thức phi thường.” ( LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.371) Nói cách khác, phép biện chứng lên đến đỉnh điểm trong sự tự do của con người.
Cho tới cùng, Hegel tin rằng tự do của con người chỉ có thể được biểu hiện đầy đủ như một nỗ lực tập thể. Không chỉ là những cá nhân bị cô lập không đủ sức để biến đổi một cách căn bản xã hội xung quanh, trái lại với số lượng lớn người, hành động trong sự phối hợp, đã chứng tỏ rằng họ hoàn toàn có khả năng lập nên những kỳ công như vậy, mà tính hợp lý, đối với Hegel, không phải là thứ gì đó mà cá nhân đơn giản sở hữu như chỉ của riêng họ theo cách tương tự như cách mà họ sở hữu những cánh tay và đôi chân. Trái lại, tính hợp lý là một sản phẩm tập thể, chỉ được bảo đảm bởi những người đến với nhau, thảo luận về sự khác biệt giữa họ và đạt được sự đồng thuận. Công cuộc này tới lượt nó khả dĩ chỉ khi nào các cá nhân nhận ra sự bình đẳng vốn có của họ và đánh giá cao mọi sự đóng góp. Chỉ ở giai đoạn này sự đối nghịch giữa tính chủ quan và tính khách quan, mà Hiểu biết cho rằng không thể vượt qua, cuối cùng đã bị vượt qua khi mọi người cùng nhau thay đổi thế giới để hiện thực hóa các mục tiêu chung của họ. Tinh thần hay Thần tính (Geist), như ý thức tập thể của loài người, dần dần không chỉ hiểu biết một cách khoa học về thế giới xung quanh mà còn ý thức được tính hợp lý vốn có của nó, trở nên có khả năng vừa tranh thủ tự nhiên vừa tạo ra các thể chế xã hội tuân theo các nguyên tắc hợp lý, trái ngược với những thứ dựa trên sự ép buộc, chẳng hạn. Theo nghĩa này, đối với Hegel, cuối cùng, Lý trí thống trị thế giới, nhưng nó chỉ thành công nhờ sự Hiểu biết: “Cuộc chiến của lý trí là cuộc đấu tranh để phá vỡ sự cứng nhắc mà sự hiểu biết đã làm giảm tất cả mọi thứ .” (LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.67) Ở đây, con người, ví dụ, nhận ra rằng các thể chế và quan hệ xã hội xung quanh không phải là sản phẩm của tự nhiên, mà là sáng tạo của con người và do đó có thể được thay đổi theo các nguyên tắc hoàn toàn hợp lý.
C. Bảo vệ phép biện chứng.
“Khoảnh khắc” - phổ biến, đặc thù và cá nhân - tạo thành bộ ba biện chứng của Hegel. Nhưng người ta có thể tự hỏi tại sao lại là những “khoảnh khắc” này mà không phải những cái khác? Nói cách khác, có vẻ như Hegel chỉ đơn giản là áp đặt một cấu trúc ngoại lai, độc đoán lên thế giới xung quanh và suy nghĩ của chúng ta về nó. Tất nhiên, ông ấy sẽ trả lời rằng sự tất yếu của lược đồ này chỉ được xác nhận bằng một nghiên cứu cẩn thận về toàn bộ hệ thống của ông, khi mỗi bước tỏ ra là bước logic tiếp theo và là nơi mà mọi yếu tố khớp với nhau trong một hệ thống hợp lý triệt để. Nhưng nếu không sẵn sàng bắt đầu công việc khó khăn là kiểm tra toàn bộ hệ thống của ông, ba điểm có thể được nâng lên thay mặt cho sự giải thích của ông.
Đầu tiên, có thể lưu ý rằng phép biện chứng của Hegel chỉ đơn giản mô tả cách thức mà chính sự suy nghĩ tiến hành. Hegel nhận xét, ví dụ, “phương pháp là sự hiểu biết chính nó” (KHOA HỌC CỦA LOGIC, Hegel, Miller dịch, Tr.827), nghĩa là nó biểu thị cho các hình thức vận động của chính tâm trí trong việc theo đuổi sự hiểu biết. Chẳng hạn, khi chúng ta nghĩ về một vấn đề cụ thể, chúng ta bắt đầu với một ý tưởng chung chung, khá mơ hồ. Sau đó, và điều này đặc biệt hay xảy ra trong quá trình thảo luận, chúng ta phải đối mặt với những lời chỉ trích, phản đối, v.v. đối với luận điểm ban đầu của chúng ta. Nếu một người vẫn bị giam hãm ở mức Hiểu biết, thì những phản đối này, dẫu được thực hiện tốt, sẽ báo hiệu sự kết thúc nỗ lực tìm tòi của chúng ta. Luận điểm đã được chứng minh là sai và do đó bị từ chối. Lối suy nghĩ đặc biệt này đi kèm với niềm tin rằng các cuộc tranh luận về cơ bản là "thắng" hoặc "thua". Nhưng khi lý trí, được trang bị một cách tiếp cận biện chứng, xem đó như thách thức, nó sửa đổi ý tưởng ban đầu theo cách sao cho phù hợp với những phản đối đã được nêu ra và theo cách này tạo ra một quan niệm chính xác, có sắc thái hoặc là “cụ thể” hơn.
Cộng hòa Plato biểu thị chính xác loại cấu trúc này. Nỗ lực ban đầu để mô tả một người tốt bao gồm quy ước rằng một người như vậy luôn trả lại các khoản nợ của mình. Nhưng Socrates đã chỉ ra rằng nếu một người mượn vũ khí từ một người bạn và trong lúc đó người bạn bị phát điên, việc trả lại vũ khí là sai lầm. Vì vậy, định nghĩa tiếp theo về một người tốt là một người mang tới cho mọi người điều xứng đáng với họ, nghĩa là trao sự giúp đỡ cho bạn bè và điều có hại cho kẻ thù. Định nghĩa mới này phù hợp với sự phản đối ban đầu bằng cách quy định rằng nếu người mà vũ khí được mượn là bạn bè, sẽ là sai lầm khi trả lại vũ khí vì sợ rằng họ có thể làm hại chính mình hoặc người khác; tuy nhiên, nếu người đó là kẻ thù, vũ khí sẽ được trả lại với hy vọng chủ nhân có thể tự gây hại cho mình.
Có một điểm thứ hai chúng ta có thể đưa ra để bảo vệ triết lý của Hegel. Hegel tương tự Kant tin rằng để ý thức vận động trơn tru, nó phải thể hiện được một nền tảng thống nhất, hữu cơ. Nếu một khoảnh khắc của ý thức hoàn toàn bị ngắt kết nối với khoảnh khắc tiếp theo, sẽ không có ý thức nào cả. Chúng ta thông thường hoàn toàn không biết tới sự kết nối giữa những quan niệm của chúng ta nhưng chúng tất yếu vẫn là nền tảng cho tất cả những suy nghĩ của chúng ta. Sau tất cả, khi chúng ta tạo ra các quan niệm mới, chúng ta tạo ra chúng bằng các quan niệm đã có sẵn để mỗi cái được kết nối bên trong với tất cả các quan niệm khác. Hegel coi khái niệm này về sự thống nhất tất yếu của ý thức là thành tựu lớn nhất của Kant:
Do đó, khi chúng ta cho rằng mọi thứ trên thế giới bị cô lập và không lệ thuộc, chúng ta đã không thể ngẫm ra được những kết nối ngầm được cung cấp bởi chính hoạt động của ý thức - nghĩa là chúng ta thiếu sự tự ý thức:
“Quan điểm này ít nhất có giá trị là đưa ra một biểu hiện chính xác cho bản chất của tất cả ý thức. Xu hướng trong mọi nỗ lực của con người là hiểu thế giới, chiếm đoạt và khuất phục nó: để tới cùng thực tại tuyệt đối của thế giới phải bị nghiền nát và dồn nén, hay nói cách khác, được lý tưởng hóa. Đồng thời chúng ta phải lưu ý rằng đó không phải là hành động đơn thuần của ý thức cá nhân của chúng ta, mà là khởi đầu cho sự thống nhất tuyệt đối trong sự đa dạng của ý thức. bản sắc này tuyệt đối hóa chính nó. Sự tuyệt đối là, như nó vẫn vậy, thật tử tế khi để những thứ cá nhân trở thành niềm vui của riêng chúng, và nó một lần nữa đưa chúng trở lại sự thống nhất tuyệt đối.” (LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.88-9)
Nói cách khác, tất cả các quan niệm của chúng ta đều có ý nghĩa, không phải bởi một số mối tương quan với thế giới bên ngoài, mà bởi mối quan hệ của chúng với nhau. Phép biện chứng của Hegel về phổ biến, đặc thù và cá nhân cung cấp cho chúng ta cách để hiểu về sự thống nhất này.
Một biện minh thứ ba có thể được nêu ra để bảo vệ phép biện chứng của Hegel: cấu trúc bộ ba của phép biện chứng phản ánh cấu trúc của chính ý thức. Hàng loạt thứ được con người ý thức trong một khoảng thời gian. Sự chú ý có thể bị thu hút bởi một cảnh quan, tiếp đó tới bầu trời rồi sau nữa theo một cánh chim đang bay. Một mặt những nội dung khác nhau này tạo thành các trạng thái ý thức đặc thù, nhưng mặt khác tất cả chúng cũng thuộc về một ý thức hay bản ngã duy nhất, thứ phổ quát bao gồm tất cả và vẫn giữ nguyên trong suốt những biến đổi này. Tuy nhiên, ý thức vận hành theo cách mà nó phân biệt chính nó với các nội dung đủ loại để cái sau tạo thành một cái gì đó trái ngược với nó. Chúng ta phân biệt kinh nghiệm của chúng ta về một cái gì đó từ những điều mà chúng ta đang trải nghiệm. Và vì khả năng đó tạo nên sự khác biệt này, chúng ta đang ở một vị trí để suy ngẫm về nội dung kinh nghiệm của chúng ta và có được sự hiểu biết hợp lý về chúng. Ở mức độ thành công nhất định, chúng ta chuyển đổi một cái gì đó xa lạ thành thứ gì đó của chúng ta, bởi vì chúng ta hiểu nó. Sự thống nhất về tính chủ quan và tính khách quan này cấu thành nên quan niệm cá nhân của Hegel.
D. Ví dụ về sự làm việc của phép biện chứng
Trước khi kết thúc cuộc thảo luận về phép biện chứng của Hegel, có lẽ nên so sánh một số ví dụ về sự suy nghĩ được tiến hành bởi Khả năng Hiểu biết với các ví dụ được thực hiện bởi Lý trí trong đó phép biện chứng rõ ràng là có hiệu quả.
Khi Hiểu biết quan niệm về ý chí tự do, nó đặt sự tự do đối lập với sự cưỡng bách. Tức là, để được tự do, ý chí phải được tự quyết chứ không phải được xác định một cách nhân quả bởi các nhân tố bên ngoài hoạt động với sự cần thiết không thể thỏa hiệp. Ở đây tự do của ý chí chỉ đơn giản là sự lựa chọn tự do, bất kể nội dung. Theo quan điểm này, mua một chiếc xe này chứ không phải một chiếc khác hoặc xem một chương trình TV này chứ không phải cái khác là một ví dụ thực sự, với điều kiện là sự lựa chọn xuất phát từ bên trong cá nhân chứ không phải từ bên ngoài như, ví dụ, sự thao túng quảng cáo khôn ngoan, áp lực ngang hàng, v.v...
Hegel lập luận rằng đây chỉ là bước đầu tiên theo hướng tự do thực sự, dù nó không hoàn toàn sai. Nó thiếu sót bởi vì một sự mâu thuẫn xuất hiện giữa hình thức và nội dung, hoặc phổ biến của nó đòi hỏi đại diện cho tự do và các ví dụ đặc thù mà nó giả định. Hình thức được cấu thành bởi đòi hỏi về tự do, nhưng nội dung được xác định bởi các tùy chọn mà chủ thể không có quyền kiểm soát. Nói cách khác, chủ thể đứng lên và chống lại một thế giới đối lập với nó. Bởi thế, có thể có trường hợp tất cả các tùy chọn có sẵn đều là không mong muốn. Nhưng đối với sự hiểu biết, lựa chọn ở đây sẽ vẫn đủ điều kiện là một lựa chọn chân chính. Như Hegel chỉ ra: Ở đây, “vấn đề lựa chọn được đưa ra, và được biết đến như là một nội dung không phụ thuộc vào ý chí, mà vào hoàn cảnh bên ngoài.” (LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.264)
Trái ngược với phiên bản tự do của Hiểu biết, Hegel bảo vệ luận điểm rằng sự tự do thực sự sẽ phải kết hợp với sự cưỡng bách, đặc biệt là liên quan đến nội dung được chọn: “Ý chí tự do thực sự, bao hàm sự lựa chọn tự do bị treo lơ lửng, ý thức về chính nó rằng nội dung của nó là kiên định và dứt khoát về bản chất, và biết rằng nó hoàn toàn làm chủ bản thân.” (LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.264) Nói cách khác, thay vì chọn trong số các tùy chọn đã cho mà không có quyền kiểm soát, chủ thể tự do sẽ tự xác định phạm vi của các tùy chọn. Điều này sẽ lên tới, ví dụ, tạo ra các thể chế xã hội mới thay vì chỉ đơn giản là lựa chọn giữa các tổ chức hiện có. Bởi vậy, “tâm trí cấu thành nên chính nó và do đó tự do: bởi sự tự do có ý nghĩa là điều gì đó khác đối với bạn như một bản ngã thứ hai - để bạn không bao giờ xa rời bản thân mà tự đưa ra luật lệ cho chính mình.” (LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.49) Người ta không chọn giữa các lựa chọn thay thế từ một thế giới xa lạ mà cấu trúc lại chính thế giới đó sao cho phù hợp với các nguyên tắc hợp lý của chính mình.
Đối với Hegel, khái niệm tự do cao hơn này là sự tổng hợp của ý chí tự do và sự bắt buộc, nhưng những thuật ngữ này nhất thiết phải trải qua một sự chuyển đổi về nghĩa khi được kết hợp: “... tự do và sự bắt buộc, khi bị đối lập một cách trừu tượng, là những thuật ngữ chỉ áp dụng trong thế giới hữu hạn, nơi mà chúng thuộc về.” Tuy nhiên, theo Hegel, “Đây... là một sự bắt buộc đơn thuần bên ngoài, không phải là sự bắt buộc thực sự bên trong, thứ đã đồng nhất với sự tự do.” (LOGIC CỦA HEGEL, Wallace dịch, Tr.71) Sự bắt buộc bên trong là sự cần thiết của ý thức tái tạo thế giới xung quanh theo các nguyên tắc hợp lý của chính nó.
Trong Khế ước xã hội, Rousseau đã đưa ra một ví dụ khác về sự tương phản giữa cách tiếp cận của Hiểu biết và Lý trí khi ông phân biệt “ý chí chung” với “ý chí của tất cả”. Cái sau chỉ đơn giản là sự bổ sung một cách máy móc ý chí của mỗi thành viên trong xã hội, được thực hiện một cách cô lập, trong đó mỗi ý chí cá nhân của anh ấy hay cô ấy theo đuổi cái lợi ích riêng. Một thủ tục như vậy được thể hiện trong xã hội đương đại khi công dân theo nghi lễ đi xuống các phòng bỏ phiếu để đăng ký mong muốn riêng tư của họ, hoàn toàn độc lập với nhau. Cái chung sẽ đứng trên một mặt phẳng cao hơn vì nó nhắm vào những gì tốt cho toàn xã hội, một tầm nhìn chỉ có thể được xác định đầy đủ thông qua thảo luận và tranh luận công khai, tức là thông qua lập luận hợp lý, không phải thông qua sự bốc đồng hay bản năng. Hegel đã nắm bắt được sự khác biệt này trong những lời sau:
Nói cách khác, Hiểu biết cho rằng xã hội đơn thuần là tổng số của những cá nhân tạo nên nó, và những cá nhân này được coi như các đơn vị tự trị và độc lập. Nhưng Hegel khẳng định rằng các cá nhân vốn là những sinh vật xã hội và không thể giữ được bản sắc của mình như con người khi bị xem như tách rời khỏi xã hội, không hơn gì một ngón tay không thể duy trì chính nó khi tách biệt khỏi bàn tay. Cũng có thể nói thêm rằng khi các công dân tham gia vào các thảo luận có lý trí, ý kiến của họ không còn đơn giản là của một cá nhân bị cô lập. Trong quá trình thảo luận, những ý tưởng mơ hồ trở nên rõ ràng, các vị trí trở nên tinh vi hơn khi chúng được yêu cầu phải tính đến những phản đối đã được nêu ra, v.v. Do đó, cái chung của Rousseau sẽ thực sự đi chệch khỏi hình ảnh của Sự hiểu biết và đi vào cõi Lý trí nơi các bộ phận cấu thành bây giờ thuộc về một tổng thể hữu cơ mới.
Vì các cách tiếp cận trái ngược của Hiểu biết và Lý trí trải khắp cuộc sống hàng ngày, phần này sẽ được kết thúc với một số ví dụ trần tục hơn. Chẳng hạn, khi đánh giá kết quả bầu cử, sự hiểu biết sẽ xem xét số phiếu mà mỗi ứng cử viên giành chiến thắng một cách riêng biệt. Nếu một ứng cử viên nhận được 60 phần trăm phiếu bầu và người còn lại 40 phần trăm, thì người ta cho rằng 60 phần trăm cử tri ủng hộ ứng cử viên trước. Nhưng điều mà phân tích này không xem xét là toàn bộ các lựa chọn được đưa ra cho cử tri. Ví dụ, nếu quang phổ chỉ bao gồm hai ứng cử viên và cả hai đều không hấp dẫn với đại đa số dân chúng khiến cho cử tri cảm thấy bắt buộc phải chọn "cái ác ít hơn", do vậy, việc một ứng cử viên nhận được 60 phần trăm phiếu bầu nói lên rất ít về sở thích thực sự của cử tri. Nói cách khác, những người chiến thắng phải được đánh giá dựa trên tổng số mà họ được chọn, như Lý trí dự định. Và khi cách tiếp cận của Lý trí được thông qua, người ta có thể hiểu tại sao hai đảng chính trị có thể được hưởng độc quyền về quyền lực chính trị trong nhiều thập kỷ nhưng điều đó đột nhiên bị phá hủy khi một lựa chọn mới xuất hiện trên đường chân trời chính trị, như đã xảy ra gần đây ở Venezuela. Hơn nữa, khi một ứng cử viên cụ thể được đưa vào văn phòng do kết quả của việc huy động quần chúng, quan hệ biện chứng trở nên tăng cường. Ứng cử viên bị đẩy sang trái vì họ mắc nợ quần chúng vì vị trí chính phủ của họ và phải đáp ứng yêu cầu của quần chúng để duy trì chức vụ. Ngược lại, quần chúng, những người nhanh chóng cảm nhận được sức mạnh mà họ nắm giữ, mạnh dạn hơn nữa để thúc đẩy nhu cầu của họ.
Cuối cùng, liên quan đến tương tác của con người, một số cá nhân tự trang bị cho mình những nguyên tắc đạo đức trừu tượng mỗi khi tiếp xúc với người lạ. Họ cho rằng, thường là không chính xác, các nguyên tắc đạo đức của riêng họ là phổ biến và sử dụng chúng để bắt nạt bất cứ ai không tuân theo. Ở đây sự hiểu biết là hoàn toàn thiển cận. Nhưng một cách khác là xử sự đàng hoàng trong mối quan hệ với đồng loại, chấp nhận một thái độ cởi mở đối với các giá trị và nguyên tắc của họ. Theo cách này, người ta có thể cố gắng đạt được một viễn cảnh chung, nơi cả hai người tham gia đều có được tầm nhìn rộng hơn. Điều này chỉ có thể được thực hiện bằng Lý trí.
E. Các nhà phê bình của Hegel
Chúng ta cuối cùng trở lại với một số nhà phê bình của Hegel và tranh luận lý do tại sao miêu tả của họ là không đầy đủ. Khi một ai đó hạn chế bản thân trong việc làm sáng tỏ phép biện chứng đối với ba quy luật của Engels (điều mà Engels không làm), về cơ bản, người ấy đang hoạt động ở cấp độ Hiểu biết, điều mà theo Hegel là bất lực để đi đến phép biện chứng. Ví dụ, các quy luật được liệt kê riêng biệt và độc lập với nhau mà không có nỗ lực rút ra cái này từ trong cái kia hoặc đặt chúng vào một nền tảng chung nào đó, kết quả là chúng có vẻ như độc đoán và tùy tiện. Tại sao là những quy luật này mà không phải những cái khác? Ưu điểm của bộ ba quan niệm của Hegel là chúng có mối liên hệ nội tại và cơ bản. Phổ biến nhất thiết bao hàm sự đối lập của nó dưới dạng đặc thù, vì vậy theo cách này, “sự thâm nhập của các mặt đối lập” được giải thích, và kết quả cá nhân bằng cách tổng hợp hai yếu tố đối lập này, dẫn đến “sự phủ định của phủ định”.
Sau đó, có một vấn đề nữa là ba định luật này được đối xử như thể chúng ở cùng cấp độ với các định luật vật lý của Newton. Nghĩa là, vẫn hoạt động ở cấp độ Hiểu biết, ví dụ, ý nghĩa của chúng, được coi là bất biến, bất kể nội dung, do đó xóa bỏ các hình thức khác nhau sâu sắc mà giả định biện chứng liên quan đến bản chất vô cơ so với ý thức của con người được đặt vào trong một bối cảnh lịch sử cụ thể. Trong trường hợp tự nhiên, ý thức của con người chống lại nó và rút ra kết luận biện chứng mà các phạm trù tự nhiên của chúng ta ngụ ý một cách logic. Ý thức, ví dụ, xuất phát từ sự tồn tại và không có gì; được và không có gì không làm điều này cho chính chúng. Và khi kết thúc sự phát sinh này, ý thức và tự nhiên vẫn trái ngược với nhau, và thiên nhiên vẫn chính xác như trước đây. Nhưng khi phép biện chứng mở ra liên quan đến tâm trí, đặc biệt là liên quan đến ý thức tập thể của loài người, ở dạng cao nhất, nó đại diện cho việc thực thi tự do. Khi loài người ở vào vị trí để hành động một cách hợp lý, một thành tựu cần có sự đóng góp của nhiều thế hệ, thì chúng ta có thể định hình lại thực tế để nó phù hợp với những gì chúng ta đã xác định là hợp lý, một quyết định có được từ thảo luận và cân nhắc và đó nhất thiết là một quá trình có ý thức. Đây là định mệnh cao nhất của chúng ta, và đây là điều mà phép biện chứng cuối cùng biểu thị: Sự tối ưu trong cái đối lập trừu tượng giữa tính chủ quan và tính khách quan và sự hiện thực hóa tự do của con người. Tuy nhiên, từ trước đến nay biện chứng được coi là quy luật tự nhiên, áp dụng một cách giống hệt với tự nhiên và nhân loại, chúng ta hoàn toàn không được khuyến khích nhận thức về tự do tiềm năng của mình, một kết quả hoàn toàn phù hợp với chương trình nghị sự chính trị của Stalin và những người bảo vệ ông. Trong nhiều thập kỷ, Liên Xô, dưới thời Stalin, đã phanh lại các cuộc cách mạng thế giới, phụ thuộc tất cả các cuộc đấu tranh khác vào mục tiêu tối cao là bảo vệ “chủ nghĩa xã hội” trong một nước, và cụ thể hơn là các đặc quyền của bộ máy quan liêu Xô Viết. Trong những điều kiện như vậy, bắt buộc phải làm dịu quần chúng trên toàn thế giới và dập tắt khát vọng cách mạng của họ. Bằng cách thực hiện các phép biến đổi biện chứng, cách mạng trông như thể chúng là một điều gì đó đã xảy đến với quần chúng hơn là một cái gì đó mà chính họ đảm nhận, một đề nghị tinh tế đã được truyền đến quần chúng rằng họ phải thụ động để các sự kiện có thể diễn ra theo logic của chính chúng, mà trên thực tế, là nhằm mục đích duy trì hiện trạng.