(Vài lời từ người dịch: Bài viết này ra đời trong cao trào của cuộc cách mạng ở Venezuela và kể từ đó đến nay rất nhiều sự kiện đã diễn ra, có những phân tích đã trở lên lỗi thời bên cạnh nhiều phân tích vẫn còn nguyên giá trị với thời gian. Và vì thế tôi quyết định dịch nó như một tài liệu tham khảo quan trọng, đồng thời đề nghị bất kỳ sự thảo luận và phê phán nào về bài viết cần có sự tham khảo nghiêm túc bối cảnh ra đời của nó. Thân ái)
Cogestión (Đồng quản lý) có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau đối với những người khác nhau, nhưng đối với tầng lớp lao động Venezuela thật rõ ràng, cuộc đấu tranh cho đồng quản lý là một cuộc đấu tranh cho kiểm soát và quản lý của công nhân chân chính, cho sự chuyển đổi xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đà phát triển của cuộc đấu tranh để kiểm soát của công nhân ở Venezuela đánh dấu một sự can thiệp quyết định của giai cấp công nhân Venezuela vào cuộc cách mạng Bolivar. Vì cuộc đấu tranh đang phát triển ở Venezuela, chúng tôi buộc phải thảo luận những câu hỏi quan trọng này trong hàng ngũ của chúng ta để cung cấp cho các đồng chí một bức tranh rõ ràng về sự phát triển ở Venezuela và để giải thích vị trí và khẩu hiệu của chúng ta để chuẩn bị cho các cuộc đấu tranh cách mạng ở các nước khác trên thế giới .
Nguyên tắc kiểm soát của công nhân
Kiểm soát của công nhân đúng như những gì nó nói, đó là: tầng lớp lao động và đại diện của nó trong các nhà máy có quyền kiểm tra sổ sách của một công ty hoặc ngành công nghiệp, v.v., để kiểm tra và kiểm soát tất cả các hoạt động xuất và nhập, các hoạt động quản lý. Trong “Chương trình chuyển tiếp”, Trotsky đã giải thích rằng bước đầu tiên hướng tới sự kiểm soát công nghiệp trên thực tế là sự xóa bỏ của “bí mật kinh doanh”. Bởi các bí mật kinh doanh, kế toán và sổ sách trong thực tế được sử dụng để biện minh cho tất cả các cách thức tấn công vào tầng lớp lao động như giảm lương, giảm sản xuất, sa thải và tăng giờ làm việc.
Khi các ông chủ tuyên bố phá sản, hoặc tuyên bố họ đang thua lỗ và ra yêu sách, sự kiểm soát của công nhân sẽ cho phép công nhân kiểm tra sổ sách và xác định tình hình thực tế. Ý nghĩa của điều này là sự vén màn những bí mật, để cho giai cấp công nhân thấy được các hoạt động chi tiết của hệ thống tư bản, đó là một bước đầu để loại bỏ nó.
Nhiệm vụ trước mắt của sự kiểm soát của người lao động là làm rõ các khoản nợ và tín dụng của xã hội: trước tiên hãy nhìn vào các doanh nghiệp riêng lẻ để xác định phần thu nhập quốc dân của cá nhân các nhà tư bản và tất nhiên là cả giai cấp thống trị. Một nhiệm vụ khác của sự kiểm soát của người lao động là tiết lộ cho xã hội sự phung phí lao động của con người và theo đuổi lợi nhuận trần trụi, cũng như vạch trần các thỏa thuận bí mật, lừa đảo và tham nhũng vốn có trong hệ thống.
Trotsky cũng giải thích rằng sự kiểm soát công nghiệp của người lao động là một “trường học cho nền kinh tế kế hoạch”, cho phép người lao động hiểu biết một cách khoa học về cách thức hoạt động của nền kinh tế để nhân loại có thể nên kế hoạch cho sản xuất và kinh tế một cách có ý thức và dân chủ toàn diện. Thông qua kinh nghiệm kiểm soát của công nhân, giai cấp công nhân tự mình chuẩn bị cho việc quản lý trực tiếp các ngành công nghiệp được quốc hữu hóa.
Do đó, sự kiểm soát công nghiệp của người lao động thường không lâu dài, không ổn định và trên thực tế hàm chứa một quyền lực kép trong nhà máy hoặc doanh nghiệp và không thể tồn tại mãi mãi trừ khi sự kiểm soát này được chuyển thành sự quản lý trực tiếp.
Ở đây cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa một bên là cách mạng, là nhu cầu quá độ với sự kiểm soát và quản lý của người lao động, và một bên là sự cải cách, một biện pháp nửa vời có sự tham gia của người lao động.
Trotsky giải thích vào những năm 1930 rằng, dưới chủ nghĩa tư bản, nếu sự tham gia của công nhân vào quản lý sản xuất là lâu dài, ổn định và “bình thường”, thì phải dựa trên cơ sở hợp tác giai cấp, chứ không phải là đấu tranh giai cấp.
Sự hợp tác như vậy sẽ luôn được hiện thực hóa thông qua các tầng trên của công đoàn và quản lý. Ngay cả trong những năm 1930, có những ví dụ về sự tham gia của người lao động ở Đức (“Kinh tế dân chủ”) và ở Anh (“đồng thuận hai bên”). Tuy nhiên, như sau này vào những năm 1970 ở châu Âu, đây không phải là tình thế kiểm soát tư bản của người lao động, mà là sự phụ thuộc của bộ máy quan liêu lao động vào tư bản. Về mặt bản chất, các quan chức lao động được sử dụng để tăng cường cho chế độ tư bản, và chuyển hướng cuộc đấu tranh của công nhân xuống các kênh “an toàn”.
Và ý tưởng về sự tham gia của người lao động ở châu Âu thì sao? Sự tham gia của công nhân, hay còn gọi là dân chủ công nghiệp, đã được thảo luận rộng rãi và được thực hiện trên khắp châu Âu trong những năm 1970. Điều này đa phần là để đáp ứng trước sự gia tăng của phong trào lao động phản ánh qua các sự kiện tháng 5 năm 1968 ở Pháp và cả các nơi khác, các cuộc đình công của các thợ mỏ năm 1972 và 1974 ở Anh, các cuộc đình công chung ở Ý và Đan Mạch, và làn sóng đình công quét qua Tây Đức.
Giai cấp thống trị đã tuyệt vọng trong việc ngăn chặn các phong trào này thông qua “quan hệ đối tác xã hội”, và hướng sự bất ổn do người lao động vào các kênh “An toàn”. Bằng cách kết hợp các đẳng cấp trên cùng của các công đoàn trong văn phòng và trong nhà máy, các ông chủ hy vọng sẽ tăng hiệu quả và nâng cao mức lợi nhuận.
Trên thực tế, những ví dụ về điều này có thể được nhìn thấy từ những năm 1920 ở Anh, khi Ngài Alfred Mond của ICI, nhà tư bản độc quyền ngành hóa chất, đã tìm cách tạo ra nền “dân chủ công nghiệp” trong nhà máy của ông.
Sự tham gia của công nhân cho phép các quan chức lao động này cung cấp cho ban quản lý thông tin và đề xuất từ lực lượng lao động. Như tất cả chúng ta đều biết, và như bất kỳ người quản lý nhà máy nào cũng biết, chính những người lao động - những người thực sự làm việc - biết cách tốt nhất để hoàn thành công việc. Đồng thời, thông qua sự tham gia của công nhân, ban quản lý cũng có thể thông qua những quyết định an toàn tới lực lượng lao động và làm mất uy tín của các quan chức lao động bằng cách làm cho họ có vẻ như chịu trách nhiệm về các quyết định không phổ biến.
Các ủy ban quan liêu, các cơ quan đại diện cho sự tham gia của công nhân, về cơ bản là các ủy ban bất lực, nơi chỉ để các công nhân trút giận. Sự tham gia của công nhân cũng tạo ra ảo tưởng rằng các công nhân có ảnh hưởng trong việc ra quyết định - điều này là để tránh các công nhân và tổ chức của họ có hành động độc lập. Ví dụ ở Đức, các ủy ban này không thể kêu gọi đình công. Điều này cho phép các ông chủ và các quan chức lao động phớt lờ và làm suy yếu các công đoàn. Trên thực tế, những ủy ban công nhân này đã liên tục chống đối các công đoàn trong nỗ lực làm suy yếu họ. Các ông chủ chỉ đơn giản là sử dụng chiến thuật lâu đời của sự chia rẽ và cai trị tư bản, dùng một tổ chức này để chống lại tổ chức kia.
Trải qua sự tham gia của công nhân, một tầng lớp mới của các viên chức công nghiệp đã được tạo ra, những người chia sẻ lợi ích cùng với quản lý - nói tóm lại, nó tạo ra một tầng lớp đặc quyền đứng trên giai cấp công nhân.
Dẫn chứng nào cho tất cả điều này? Tôi đã đọc một bài báo trên tờ Độc lập hôm thứ Năm ( ngày 28 tháng 7) về một vụ bê bối tham nhũng tại Volkswagen. Một vụ bê bối lớn vừa được phơi bày ở VW liên quan đến các quỹ mờ, mại dâm, xe thể thao, v.v., và giám đốc ủy ban công nhân. Một số người trong số họ đã chi hàng triệu Euro tiền công ty cho nhà cửa, du ngoạn và xe hơi cho những người tình bí mật trên toàn thế giới. Đây là những gì Độc lập mô tả:
Đây là điểm kết thúc của sự tham gia của công nhân. Các quan chức công đoàn, những người không còn có bất kỳ kết nối nào với hàng ngũ bên dưới nữa, kề vai sát cánh với các quản lý và giám đốc điều hành. Quyền lợi của các công nhân đã bị bán rẻ để đổi lấy gái mại dâm, viagra và những chuyến đi tới Brazil.
Ngược lại, sự kiểm soát của công nhân thông qua các ủy ban nhà máy, hoặc hội đồng công nhân chỉ có thể dựa trên cơ sở của cuộc đấu tranh giai cấp sâu sắc. Trong điều kiện bình thường, giai cấp tư sản sẽ không bao giờ chấp nhận sự kiểm soát của người lao động chân chính, sẽ không bao giờ chấp nhận quyền lực kép trong các nhà máy của mình. Khả năng của giai cấp công nhân để áp đặt sự kiểm soát của mình đối với sản xuất được xác định bởi tương quan sức mạnh của toàn thể giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Sự kiểm soát của những người lao động chân chính phải được áp đặt lên các nhà tư bản, và do đó song song với thời kỳ khủng hoảng cách mạng của xã hội - nó tương ứng với cuộc tấn công vô sản và sự thoái lui của giai cấp thống trị. Do đó, sự kiểm soát của người lao động chân chính là song song với thời kỳ cách mạng vô sản.
Đây là lý do tại sao ở Venezuela, mặc dù có những áp lực và nhiều vấn đề xung quanh câu hỏi về sự kiểm soát của người lao động, mà chúng ta sẽ nói sau, chúng ta vẫn thấy sự mở rộng quyền kiểm soát của người lao động. Cuộc đấu tranh này hay kia có thể chỉ là để bảo vệ Venezuela, nhưng sự mở rộng và tăng cường của "đồng quản lý" liên quan đến động lực tấn công tổng thể của giai cấp công nhân và sự thoái lui toàn diện của giai cấp thống trị. Đất nước đối mặt với một tình huống cách mạng, các công nhân đang chuyển động về phía trước, và ở khắp mọi nơi các ông chủ đang thoái lui.
Trong cuộc đấu tranh giành quyền kiểm soát của công nhân chân chính, giai cấp công nhân chắc chắn tiến lên phía trước theo hướng giành chính quyền và nắm bắt các phương tiện sản xuất. Các nhà máy hoặc doanh nghiệp cá thể dưới sự kiểm soát của công nhân, hoặc quản lý của công nhân, chỉ có thể hoạt động như một phần trong nền kinh tế tổng thể, tức là trong giới hạn của chủ nghĩa tư bản. Nhưng không thể xây dựng một hòn đảo xã hội chủ nghĩa trong một biển chủ nghĩa tư bản.
Một ví dụ điển hình cho điều này, theo nghĩa tiêu cực, là nhà máy luyện kim Alcan ở Jonquière, Québec. Alcan là nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới. Nhà máy luyện kim lớn ở Jonquière đã được dự kiến tới năm 2014 mới đóng cửa. Nhưng đầu năm 2004, Alcan bất ngờ tuyên bố họ sẽ đóng cửa nhà máy luyện kim. Là một phần của cuộc đấu tranh tự vệ, các công nhân đã chiếm nhà máy. Họ nhanh chóng nhận ra một cách đau đớn về sự phá hoại từ phía thành phần quản lý, và loại bỏ khỏi nhà máy các giám sát viên và quản lý. Sau này, họ báo cáo rằng sản xuất đã được nâng cao so với trước khi công nhân nắm quyền kiểm soát.
Nhưng toàn bộ hệ thống tư bản đã liên kết để đánh bại công nhân. Các phương tiện truyền thông và nhà nước gây áp lực rất lớn cho họ. Các công ty khác từ chối bán cho họ các nguyên liệu thô cần thiết để sản xuất nhôm và nhà máy luyện kim bị bỏ đói. Thật không may, cuối cùng, cuộc đấu tranh đã bị thất bại. ( Xem: Công nhân ở Québec chiếm đoạt nhà máy luyện kim Alcan)
Các nhà máy hoặc doanh nghiệp dưới sự kiểm soát của công nhân, chẳng hạn như nhà máy luyện kim Alcan, hoặc các công ty dưới sự kiểm soát của công nhân ở Venezuela ngày nay, phải tương tác, mua nhiên liệu và bán sản phẩm của họ cho khu vực tư nhân. Họ phải tương tác với thị trường. Do đó, họ đang ở trong sự thương xót của chủ nghĩa tư bản. Điều này hợp lý dẫn người lao động tới cuộc đấu tranh chống lại sức mạnh của tư bản.
Câu hỏi về tín dụng, nguyên liệu thô và thị trường, ngay lập tức cho thấy sự cần thiết phải mở rộng sự kiểm soát của người lao động vượt ra ngoài giới hạn của các công ty riêng lẻ. Một ví dụ tốt về điều này, trong một ý nghĩa tích cực, là ALCASA, một nhà máy nhôm nhà nước tại Venezuela, hiện đang trải qua những hình thức tiên tiến nhất của đồng quản lý. Trong giai đoạn 2002-2003 khi các ông chủ tìm cách đóng cửa nhà máy, những kẻ phá hoại đã cắt nguồn cung cấp khí đốt cho nhà máy, làm gián đoạn sản xuất. Các công nhân ALCASA, cùng với các công nhân từ một công trình thép lân cận, đã tự vũ trang, diễu hành đến các công trình khí đốt, phá vỡ cảnh sát đối lập và buộc khởi động lại việc cung cấp khí đốt để đảm bảo sản xuất.
Với sự thống trị của thị trường thế giới và sự phụ thuộc của mọi quốc gia vào thương mại thế giới, câu hỏi về xuất nhập khẩu làm tăng nhu cầu kiểm soát của người lao động ở cấp độ quốc gia. Điều này ngay lập tức gây ra sự đối đầu giữa các cơ quan trung ương thuộc kiểm soát của công nhân với các cơ quan của giai cấp thống trị.
Tất nhiên chúng ta không thể máy móc hay hình thức trong quan niệm của mình về sự phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng chúng ta có thể thấy sự kiểm soát công nghiệp của công nhân, hoặc quyền lực kép trong các nhà máy, thường tương ứng, hoặc dẫn đến thời kỳ quyền lực kép trong Quốc gia. Quyền lực kép trong các nhà máy, và quyền lực kép trong nhà nước sẽ không phải lúc nào cũng được sinh ra trong cùng một ngày. Trong một số trường hợp, sự kiểm soát của công nhân sẽ phát triển trước quyền lực kép trong nhà nước và trong các trường hợp khác thì lại ngược lại.
Những mâu thuẫn không thể thỏa hiệp vốn có trong chế độ kiểm soát của công nhân, vốn có trong chế độ quyền lực kép, sẽ ngày một sâu sắc và đạt đến một trạng thái quan trọng, nơi những mâu thuẫn này sẽ trở nên không thể hòa giải với cả hai bên. Quyền lực kép là một giai đoạn của cuộc đấu tranh giai cấp, trong đó mâu thuẫn giai cấp đã trở nên gay gắt đến mức xã hội bị chia thành hai phe thù địch, hai thế lực thù địch, một thế lực cũ đang thoi thóp và phản động, trong khi cái mới, trỗi dậy một tinh thần cách mạng. Cách duy nhất để thoát khỏi tình trạng này là để giai cấp công nhân nắm quyền và cách mạng giành chiến thắng, hoặc cách mạng sẽ là kết thúc trong sự nghiền nát của phản cách mạng. Chỉ cần nhìn vào sự khác biệt trong kết quả của Cách mạng Nga và các cuộc cách mạng ở Ý và Đức để thấy được điều này.
Như ở Venezuela ngày nay, sự kiểm soát công nghiệp của người lao động bao hàm sự kiểm soát không chỉ đối với sự quản lý chung, mà còn đối với các hoạt động cục bộ và tắt hệ thống, các ngành công nghiệp bị đóng cửa hoặc không hiệu quả. Nhiệm vụ mở lại các công ty không hiệu quả thông qua các ủy ban nhà máy, trong một biển chủ nghĩa tư bản, mang ý nghĩa cho sự bắt đầu một nền kinh tế kế hoạch. Những nhà máy này phải được cung cấp nguyên liệu thô và có thể đưa thành phẩm của họ ra thị trường. Điều này dẫn trực tiếp tới câu hỏi về cơ quan nhà nước quản lý công nghiệp. Như chúng ta cũng có thể thấy ở Venezuela, các công ty nhà nước này phải đối mặt với sự phá hoại, và vẫn đang chịu sự chi phối của chủ nghĩa tư bản, cả trong nước và quốc tế. Điều này tiếp theo sẽ dẫn trực tiếp đến câu hỏi về sự sung công tài sản của các nhà tư bản.
Tất cả điều này có nghĩa là sự kiểm soát của người lao động không phải là một điều kiện bình thường, kéo dài. Đó là dấu hiệu cho thấy sự gia tăng của đấu tranh giai cấp, và câu hỏi về sức mạnh kép trong công nghiệp phải được trả lời. Sự kiểm soát của công nhân là một biện pháp chuyển tiếp tồn tại dưới những căng thẳng cao nhất của cuộc đấu tranh giai cấp, và sẽ là cầu nối tới cuộc cách mạng quốc hữu hóa công nghiệp, tương ứng với sự chuyển đổi từ chế độ tư sản sang vô sản.
Điều quan trọng là chúng ta hiểu sự khác biệt giữa kiểm soát của công nhân và quản lý của công nhân. Đây là nguồn gốc của một sự nhầm lẫn lịch sử, và chúng ta phải rõ ràng về vấn đề này. Sự kiểm soát của công nhân có nghĩa là sự kiểm soát nằm trong tay của người lao động, nhưng quyền sở hữu đó vẫn nằm trong tay các nhà tư bản. Kiểm soát của công nhân có thể chiếm ưu thế, và bao trùm tất cả, nhưng nó vẫn mới là kiểm soát.
Trotsky giải thích:
Việc quản lý thực tế các ngành công nghiệp được quốc hữu hóa đòi hỏi các hình thức quản lý và nhà nước mới, và trên hết đòi hỏi kiến thức, kỹ năng và các hình thức tổ chức phù hợp. Đối với điều này một thời gian học nghề là cần thiết. Trong thời kỳ học nghề này, cho dù nó xảy ra trước hay thậm chí sau khi giành quyền lực, giai cấp công nhân có lợi ích khi trao việc quản lý trong tay một chính quyền có kinh nghiệm, dưới sự kiểm soát của công nhân. Thời kỳ này chỉ chuẩn bị các yếu tố cho một nền kinh tế kế hoạch.
Quản lý công nghiệp của công nhân, trong khi đó, tiến hành từ trên xuống, bởi vì nó bị ràng buộc với quyền lực nhà nước và kế hoạch kinh tế. Trong khi kiểm soát đến từ bên dưới và được thực hiện bởi các ủy ban nhà máy, các cơ quan quản lý là hội đồng công nhân tập trung, quyền lực nhà nước tập trung. Điều quan trọng là chỉ ra rằng các ủy ban nhà máy không biến mất, rằng vai trò của họ, mặc dù đã thay đổi, vẫn rất quan trọng.
Chúng ta không phải là người theo chủ nghĩa công đoàn. Chúng ta không tin rằng quyền sở hữu các nhà máy riêng lẻ nên chuyển sang tay của các công nhân trong các nhà máy đó. Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa là tập thể, là sở hữu xã hội đối với tư liệu sản xuất và loại bỏ cạnh tranh công nghiệp trong xã hội - điều này bắt đầu từ quyền sở hữu nhà nước đối với tư liệu sản xuất.
Vào năm 1917, Trotsky đã được hỏi trong một cuộc phỏng vấn liệu các công nhân trong mỗi nhà máy có nên sở hữu nhà máy mà họ làm việc hay không và liệu lợi nhuận có nên chia cho các công nhân hay không. Ông trả lời bằng cách nói:
Trong một nhà nước của công nhân, trừ khi sự quản lý công nghiệp cuối cùng nằm trong tay các hội đồng công nhân đại diện cho nhà nước và toàn thể giai cấp công nhân, các ngành công nghiệp và các công ty sẽ cạnh tranh với nhau, không thể có sự điều phối kế hoạch ở tầm quốc gia và về cơ bản chúng ta vẫn sẽ còn chủ nghĩa tư bản. Đây là lý do vì sao chúng ta phản đối ý tưởng của những người vô chính phủ và chủ nghĩa công đoàn rằng các công nhân trong mỗi ngành nên sở hữu các ngành công nghiệp của riêng họ. Ý tưởng về quyền sở hữu "cục bộ", nơi các công nhân trong một nhà máy sở hữu nhà máy, không thay đổi sản xuất, vai trò xã hội và bản chất của công ty. Nó vẫn là một công ty của cá nhân và không thuộc sở hữu của xã hội. Một công ty thuộc sở hữu của công nhân, thông qua một ủy ban hợp tác hoặc tự quản lý vẫn sẽ là một công ty tư bản, phụ thuộc vào lợi nhuận - cho dù đó là sở hữu của một hợp tác xã công nhân của 12, 250, hay chỉ 1 người. Đây không phải là sở hữu xã hội. Chính việc quốc hữu hóa các ngành công nghiệp, dưới sự sở hữu của nhà nước và sự kiểm soát của người lao động đảm bảo cả tính xã hội và sự quốc hữu hóa của ngành công nghiệp.
Chương trình của những người Marxist trong mối tương quan giữa quản lý của công nhân và cho nền kinh tế kế hoạch dân chủ là dành cho các ban quản lý của tất cả các ngành công nghiệp được quốc hữu hóa bao gồm: 1/3 nên được tạo thành từ những người lao động trong ngành thông qua các công đoàn của họ để bảo vệ quyền lợi của người lao động và tranh thủ sự sáng tạo, kiến thức và kỹ năng của họ. 1/3 hội đồng nên đại diện cho toàn thể giai cấp công nhân và được bầu thông qua TUC hoặc cơ quan công đoàn trung ương, và 1/3 còn lại phải đến từ nhà nước của công nhân để đại diện cho kế hoạch sản xuất quốc gia.
Kinh nghiệm ở Liên Xô
Kiểm soát và lập kế hoạch cho nền kinh tế chỉ có thể diễn ra trong một số giới hạn nhất định - giới hạn được xác định bởi mức độ kỹ thuật khi trật tự xã hội mới tiếp quản.
Ở Nga năm 1917, do sự lạc hậu của đất nước, trình độ văn hóa thấp và mù chữ của giai cấp công nhân và nông dân, trình độ kỹ thuật ở mức rất thấp. Trên thực tế, ngay cả sau Cách mạng Tháng Mười, việc quản lý công nghiệp vẫn phải nằm trong tay các nhà tư bản cho đến khi các công nhân có được chuyên môn cần thiết để nắm quyền lãnh đạo.
Một lần nữa, vào cuối năm 1917, Trotsky đã được hỏi liệu có phải chính phủ Liên Xô có ý định truất quyền sở hữu các nhà máy công nghiệp ở Nga hay không. Câu trả lời của ông dài và tôi xin lỗi vì đã sao chép hầu hết, nhưng điều này rất quan trọng vì nó làm nổi bật kế hoạch chung cho nền kinh tế của chính phủ Liên Xô.
“[Bằng cách kiểm soát] Ý tôi là chúng ta sẽ thấy rằng nhà máy được vận hành không phải từ quan điểm lợi nhuận, mà từ quan điểm của phúc lợi xã hội được hình thành một cách dân chủ. Ví dụ, chúng ta sẽ không cho phép nhà tư bản đóng cửa nhà máy của mình, bỏ đói công nhân để buộc họ phải phục tùng hoặc vì nó không mang lại lợi nhuận cho anh ta. Nếu nó sản xuất cho nền kinh tế một sản phẩm cần thiết, nó phải được tiếp tục vận hành. Nếu nhà tư bản từ bỏ nó, anh ta sẽ mất nó hoàn toàn, một ban giám đốc được lựa chọn bởi các công nhân sẽ được giao trách nhiệm thay thế…”
“Một lần nữa, 'kiểm soát' hàm ý rằng các sổ sách và hợp đồng của xí nghiệp sẽ được mở cho công chúng, do đó và từ đó sẽ không còn bí mật công nghiệp. Nếu xí nghiệp này tìm ra được một quy trình hoặc phương sách tốt hơn, nó sẽ được truyền đạt tới tất cả các xí nghiệp khác trong cùng một ngành công nghiệp, để công chúng sẽ nhanh chóng nhận ra lợi ích tối đa có thể có được từ phát kiến. Hiện tại, nó được che giấu khỏi các xí nghiệp khác bởi động cơ lợi nhuận, và trong nhiều năm, gây ra lãng phí cho cộng đồng.”
“‘Kiểm soát’ cũng có nghĩa là những nguyên liệu thiết yếu với số lượng có hạn, như than, dầu, sắt, thép, v.v., sẽ được phân bổ cho các nhà máy khác nhau tùy theo lợi ích với xã hội của chúng.”
“[Điều này sẽ được thực hiện không phải] theo sự đấu thầu của các nhà tư bản với nhau, mà trên cơ sở tập hợp số liệu thống kê một cách đầy đủ và cẩn thận.” (Bảo vệ cuộc Cách mạng Nga, Kiểm soát và Quốc hữu hóa Công nhân, Leon Trotsky).
Đặc điểm của kiểm soát của công nhân trong Cách mạng Nga là rất bùng nổ. Khẩu hiệu kiểm soát công nghiệp lần đầu tiên được Đảng Bolshevik ban hành trên diện rộng vào năm 1917, tuy nhiên, nó không được Đảng phát minh ra. Tương tự như Xôviết, các hội đồng nhà máy và sự kiểm soát của công nhân là kết quả của một hành động tự phát của giai cấp công nhân, như một phương thức đấu tranh sinh ra từ chính cuộc đấu tranh giai cấp.
Tất nhiên, sự kiểm soát của công nhân thực sự bắt đầu như một cuộc đấu tranh tự vệ chống lại sự phá hoại của các ông chủ. Nhiều nhà máy đã ngừng hoạt động và khóa cửa, hoặc bị bỏ hoang. Các công nhân trong nhiều trường hợp, để bảo vệ công việc của họ và cuộc cách mạng đã chiếm lấy các nhà máy. Trong thời kỳ này, sự kiểm soát của công nhân chủ yếu là thụ động.
Tất nhiên, sau chiến thắng của Cách mạng Tháng Mười, chính phủ Xô viết đã thông qua một nghị định về kiểm soát của công nhân dựa trên dự thảo của Lenin . Nghị định thực tế đã công nhận các ủy ban nhà máy là cơ quan kiểm soát trong từng doanh nghiệp và cố gắng tổ chức lại chúng ở cấp độ khu vực và trong Hội đồng kiểm soát công nhân toàn Nga.
Những người Bolshevik, nhận thức được sự bất khả thi của nước Nga lạc hậu để chuyển đổi ngay lập tức sang chủ nghĩa xã hội và sự thiếu kinh nghiệm của công nhân trong quản lý, chỉ muốn thiết lập một chế độ kiểm soát của công nhân cho đến khi có thể có sự hỗ trợ từ cách mạng ở phương Tây, cụ thể là từ Đức , với tầng lớp lao động mạnh mẽ, có trình độ học vấn cao.
Mặc dù vậy, những người Bolshevik đã quốc hữu hóa các ngân hàng - một trong những biện pháp quan trọng nhất được thực hiện bởi nhà nước Xô viết non trẻ. Điều này đã cướp đi của các chủ sở hữu của các doanh nghiệp lớn, cả của nước ngoài và Nga, một trong những công cụ hiệu quả nhất của họ để tổ chức phá hoại, và trao cho nhà nước Xô viết một công cụ kinh tế mạnh mẽ, cũng như một trung tâm kế toán và thống kê quan trọng và hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế.
Một trong những vấn đề cấp bách mà những người Bolshevik phải đối mặt là nhu cầu tổ chức lại ngành công nghiệp Nga và nâng cao năng suất lao động. Nếu điều này không thể được thực hiện, thì nhà nước Xô viết non trẻ đã phải chịu số phận bi đát.
Sau khi nghị định về kiểm soát của công nhân được thông qua, sự kiểm soát của công nhân đã gây ra một sự chấn động và hỗn loạn. Như Paul Avrich viết: "Hiệu ứng của nghị định là mang tới động lực mạnh mẽ cho một kiểu đặc thù của chủ nghĩa công đoàn, trong đó các công nhân tại chỗ chứ không phải là bộ máy công đoàn toàn diện kiểm soát các phương tiện sản xuất - một kiểu đặc thù của chủ nghĩa công đoàn gần kề với sự hỗn loạn toàn diện." (Paul Avrich, Người vô chính phủ Nga, trang 162). Càng ngày càng có nhiều ông chủ rời khỏi Nga, và các công nhân ngày càng bị buộc phải nắm quyền cai trị. Nền kinh tế Nga đã bị phá hủy sau bốn năm chiến tranh và cách mạng. Nước Nga đứng trên bờ vực của sự sụp đổ.
Các ông chủ đương nhiên chống lại sự kiểm soát của công nhân. Sự kiểm soát của công nhân đã phải đối mặt với việc đóng cửa và phá hoại thêm. Điều này tới lượt lại được trả lời bằng quốc hữu hóa nhằm trừng phạt. Như Trotsky đã giải thích, nếu các ông chủ cố gắng phá hoại hoặc từ bỏ nhà máy, họ sẽ mất nó.
Những người Bolshevik cũng phải đối mặt với sự tan rã của chính quyền trung ương. Trên thực tế, trong khoảng thời gian từ tháng 11 năm 1917 đến tháng 6 năm 1918, nhiều nhà máy và công xưởng đã được điều hành dưới quyền tự quản của công nhân, đó là ý tưởng của chủ nghĩa công đoàn về tự quản. Chủ nghĩa phân lập và chủ nghĩa địa phương này phản ánh sự lạc hậu của Nga, mức độ phát triển thấp của nó và một nền kinh tế tiểu tư sản nông thôn.
Nhiều người Bolshevik và các nhà lãnh đạo lao động khác nhận ra rằng tính cục bộ địa phương của các ủy ban nhà máy cá thể có thể làm hỏng nền kinh tế quốc gia thay vì sửa chữa, và nhiều người đã ích kỷ trong nhu cầu cho các xí nghiệp của chính họ, và như một lãnh đạo lao động nói rằng: “Kết quả của điều này có thể dẫn đến một loại phân tán tương tự như trong hệ thống tư bản chủ nghĩa” ( Avrich, người vô chính phủ Nga, Trang 164).
Một lãnh đạo lao động khác viết, “‘sự kiểm soát của công nhân’ đã biến thành một nỗ lực vô chính phủ nhằm đạt được chủ nghĩa xã hội trong một xí nghiệp, nhưng quả thực nó chỉ dẫn đến sự xung đột giữa chính những người lao động, và sự hạn chế tiếp cận nhiên liệu, kim loại, v.v. ( Arvich, Người vô chính phủ Nga , trang 164).
Trotsky đã lý giải về một số nguy cơ vốn có trong thiết lập này vào cuối năm 1917. Khi được hỏi liệu ủy ban công nhân hoặc người quản lý được bầu của một nhà máy có nên tự do điều hành nhà máy khi họ cảm thấy điều đó phù hợp hay không, ông trả lời, “Không, họ sẽ phải tuân theo các chính sách được đưa ra bởi hội đồng đại biểu công nhân địa phương [và] phạm vi quyền quyết định của họ sẽ bị giới hạn nữa bởi các quy định được đưa ra cho từng nhóm ngành công nghiệp bởi các hội đồng hoặc văn phòng của chính quyền trung ương. (Bảo vệ Cách mạng Nga, Kiểm soát và Quốc hữu hóa của Công nhân, Leon Trotsky)
Ông cũng được hỏi về ý tưởng của Kroptkin và những người vô chính phủ, đó là mỗi trung tâm đều được tự trị đối với các ngành công nghiệp có quan hệ với nó.
Cả Paul Avrich (trong Người vô chính phủ Nga) và EH Carr (trong Cuộc cách mạng Bolshevik, phần 2) đều báo cáo rằng một số ủy ban nhà máy đã tìm kiếm liên minh với chủ sở hữu. Đôi khi chủ sở hữu được cầu xin trở lại để giúp trục lợi. Trong một số trường hợp, ủy ban nhà máy chỉ đơn giản là chiếm dụng tiền của nhà máy hoặc bán cổ phiếu hoặc nhà máy chỉ vì lợi ích riêng của họ, phân chia chiến lợi phẩm giữa họ.
Một báo cáo của công đoàn Anh đã lý giải việc các công nhân đã chuyển đổi chỉ qua 1 đêm thành “một cơ quan cổ đông mới”. Paul Avrich đã viết,
Nhiều ủy ban đã quan tâm đến doanh nghiệp của chính họ, chứ không phải lợi ích kinh tế chung của đất nước. A.M. Pankratova đã viết,
Tất nhiên, có một số câu chuyện thành công (như các nhà máy dệt ở Moscow), nhưng xu hướng chung của nền kinh tế là đi xuống và ngày càng hỗn loạn. Trên thực tế, nền kinh tế Nga đang hướng tới sự sụp đổ hoàn toàn. Rõ ràng tình hình không có lợi cho việc tái tổ chức sản xuất, loại bỏ cạnh tranh hay là kế hoạch hóa nền kinh tế.
Cộng hòa Xô viết non trẻ còn phải đối mặt với các vấn đề khác, chẳng hạn như sự phá hoại của các chuyên gia và kỹ thuật viên. Các chuyên gia và kỹ thuật viên này đã hy vọng, và chắc chắn dự kiến rằng chính phủ Liên Xô sẽ sụp đổ chỉ trong vòng vài tuần. Kết quả là họ hoặc rời Nga hoặc từ chối làm việc. Các chuyên gia ở Nga 1917 không giống như các chuyên gia và kỹ thuật viên ngày nay. Chúng ta sẽ đến với điều này nhiều hơn trong khi chúng ta thảo luận về Venezuela, trong đó các kỹ thuật viên và chuyên gia, quản lý cấp thấp và công nhân cổ trắng ngày nay đã trở nên vô sản hơn. Họ phải đối mặt với các cuộc tấn công, giảm lương và sa thải tương tự như các công nhân cổ xanh. Sẽ có thể lôi kéo họ lên thuyền, thuyết phục họ về ý tưởng của chúng ta và tranh thủ họ, như đang xảy ra trong một số trường hợp ở Venezuela ngày nay.
Tuy nhiên, ở Nga năm 1917, các chuyên gia và kỹ thuật viên rất được ưu đãi. Họ là con cái của giới quý tộc và tư sản. Họ được giáo dục tốt, bản thân nó cũng là một đặc quyền lớn. Họ được trả lương cao, và có vị trí mạnh mẽ. Ý tưởng về nhà nước công nhân và kiểm soát của công nhân với họ là một sự xúc phạm. Một sự bãi công hàng loạt làm tê liệt nền công nghiệp Xô viết.
Do đó, nhà nước Xô viết đã buộc phải thực hiện một loạt các thỏa hiệp, bắt đầu bằng cách trả lương cho các kỹ thuật viên nhiều hơn so với những công nhân bình thường. Tất nhiên, một ủy viên chính trị sẽ ở bên họ để đảm bảo lòng trung thành của họ khi họ được gửi đến các nhà máy để giúp đỡ trong hoạt động, bản thân nó là một biện pháp tuyệt vời cho sự kiểm soát của công nhân, nhưng dù sao đó vẫn là một sự thỏa hiệp. Nhà nước Xô viết đã không còn lựa chọn nào khác - nếu không có chuyên gia ngành công nghiệp sẽ không vận hành được.
Khi đất nước nhanh chóng rơi vào cuộc nội chiến vào mùa hè năm 1918, sự phá hoại của giai cấp thống trị cũ trở lại. Nga phải đối mặt với nạn đói khi những người nông dân giàu có cất giấu ngũ cốc. Khi chính phủ Xô viết đang tuyệt vọng về nhiên liệu để chuẩn bị cho cuộc chiến sắp tới, các ông chủ dầu mỏ đã đe dọa ngừng sản xuất với niềm tin rằng các công nhân không thể điều hành được ngành công nghiệp. Tất cả các lực lượng phản động trên toàn thế giới đều háo hức dự đoán về sự sụp đổ của nhà nước Xô Viết non trẻ.
Do đó, chính phủ Liên Xô đã quốc hữu hóa các đỉnh cao chỉ huy của nền kinh tế vào tháng 6 năm 1918. Tất cả các ngành công nghiệp khai thác, kỹ thuật, dệt may, hàng điện, khai thác và chế biến gỗ, thuốc lá, thủy tinh, gốm sứ, da, xi măng, cao su, vận tải và nhiên liệu được quốc hữu hóa. Đây là những ngành công nghiệp quan trọng, và cần phải bảo vệ chúng khỏi sự phá hoại của giai cấp tư sản và sự tổ chức lại chúng cho nỗ lực chiến tranh.
Đại hội của các hội đồng kinh tế, được thành lập vào tháng 12 năm 1917, đã quyết định thành lập các ban quản lý của tất cả các ngành công nghiệp được quốc gia hóa như sau: 1/3 hội đồng đến từ các Hội đồng kinh tế khu vực hoặc Xô viết kinh tế tối cao, 1/3 đến từ các công đoàn và 1/3 khác từ các công nhân của chính doanh nghiệp. Các ủy ban nhà máy đã lần lượt chuyển đổi thành các tế bào cơ sở của công đoàn và bắt đầu quản lý và điều hành ngành công nghiệp. Những biện pháp này đã được thực hiện để đảm bảo quy hoạch dân chủ của nền kinh tế và bản chất xã hội hóa của nền kinh tế. Nó đảm bảo sự kiểm soát dân chủ đối với nền kinh tế của toàn bộ giai cấp công nhân và không chỉ của công nhân trong các nhà máy riêng lẻ. Hình thức này của chủ nghĩa công đoàn và “khu vực tự quản địa phương”, đã thống trị từ trước tháng 10 cho đến mùa hè năm 1918, đã gây ra những xích mích và cạnh tranh cũng như nguyên thủy và trục lợi, và cuối cùng đã làm tê liệt nền kinh tế. Những biện pháp mới này của nhà nước Xô viết đã đảo ngược xu hướng hỗn loạn trong nền kinh tế và là một phần chính của lý do tại sao Liên Xô có thể giành chiến thắng trong Nội chiến.
Ở đây tôi không muốn nhắc lại toàn bộ câu hỏi về chủ nghĩa Stalin và sự suy thoái của Liên Xô, vì đó không phải là vấn đề hay chủ đề thảo luận ngày hôm nay, chỉ cần nhắc qua điều này: nền dân chủ của công nhân, sự Kiểm soát và quản lý công nghiệp của công nhân đã không phát triển trong điều kiện lý tưởng ở Nga. Nhưng ngay cả như vậy, ngay cả ở một đất nước phải đối mặt với sự lạc hậu, đối mặt với sự phá hoại chung không chỉ của giai cấp tư sản Nga mà còn của các nhân viên kỹ thuật và chủ nghĩa đế quốc, trong khi giai cấp vô sản Nga non trẻ và thiếu kinh nghiệm, bị bao vây tứ phía bởi kẻ thù nhưng vẫn có thể tổ chức quản lý công nghiệp. Đây là một minh chứng cho thấy sự sáng tạo của giai cấp công nhân và khả năng biến đổi xã hội của họ.
Tuy nhiên, Liên Xô thoát ra khỏi Nội chiến trong sự tan vỡ hoàn toàn. Năm 1921, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp chỉ bằng 13% mức trước chiến tranh. Bảy năm của chiến tranh toàn diện, cách mạng và nội chiến đã gây thiệt hại cho toàn bộ nền kinh tế và đất nước. Tất cả những gì còn lại phải phục vụ cho nhu cầu Nội chiến. Giai cấp công nhân thoát khỏi Nội chiến trong trạng thái, như Lenin đã nói, “mất địa vị”. Hầu hết các công nhân tiên tiến đã cống hiến cuộc sống của họ ngoài mặt trận. Nông dân, thù địch với các thành phố và các nhà máy, và tức giận bởi những kinh ức chiến tranh, đã được đưa vào các thành phố để lấp đầy các nhà máy. Theo nhiều cách, đó là bộ máy quan liêu chứ không phải là giai cấp công nhân đã nổi lên trong chiến thắng từ Nội chiến.
Với sự ra đời của NEP và sự phát triển của bộ máy quan liêu, nền dân chủ của công nhân đã được thay thế bằng ý chí quan liêu ngày càng phát triển và tự giác. Quản lý công nghiệp của công nhân đã được thay thế bằng quản lý công nghiệp của quan liêu.